“Cướp biển vùng Caribe” giúp Mỹ chiến thắng Anh
Các chi tiết về cuộc đời của Jean Lafitte khá mơ hồ. Theo một số tài khoản, Lafitte được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp, ngày nay là Haiti. Những người khác nói rằng Lafitte là người gốc Do Thái và sinh ra ở Bordeaux, Pháp. Tuy nhiên, người ta thường tin rằng ông sinh từ 1780 đến 1782.
Lafitte được cho là có mối quan hệ thân thiết với anh em gia đình Pierre và Alexandre. Theo cuốn sách “Ngọn lửa yêu nước: Andrew Jackson và Jean Lafitte trong trận chiến New Orleans” của Winston Groom, ba anh em nhà Lafitte này đều được giáo dục nghiêm khắc, và Đang học trường quân sự trên đảo thánh. Kitts-Theo tài liệu này, Alexander, con trai cả của ba anh em, đã rời bỏ hải tặc và tấn công các tàu Tây Ban Nha đang băng qua vùng biển Caribe. Alexander thường xuyên trở về quê hương Haiti và kể cho các cậu bé nghe về cuộc phiêu lưu của mình.
Bức chân dung được cho là của Jean Lafitte. Ảnh: Wikimedia Commons.
Đây được cho là lý do tại sao anh em nhà Lafitte quyết định định cư tại Louisiana, Mỹ vào năm 1807. Họ là thủy thủ trên một chiếc thuyền săn, một phương tiện cá nhân cho phép chính phủ tấn công. Và quấy rối tàu địch.
Vào thời điểm này, Hoa Kỳ và Anh đã áp đặt lệnh cấm thương mại để tránh dính líu đến cuộc chiến của Napoléon ở Châu Âu. Lệnh cấm đã tạo ra sự khan hiếm hàng hóa ở Hoa Kỳ và thúc đẩy hoạt động buôn lậu bằng đường biển.
Lafitte (Jean Lafitte) cao hơn 1,8 mét, láu cá, láu cá, dễ sa vào cờ bạc rượu chè và các tệ nạn khác và hội tụ đủ yếu tố để trở thành hải tặc. Năm 1810, ông bắt đầu đi theo tuyến đường này, bắt đầu từ Vịnh Barataria ở phía nam New Orleans.
Vịnh Barataria là một nơi lý tưởng để buôn lậu qua đảo. Lá chắn bảo vệ huyệt đạo. Mực nước đủ cao để băng cướp Rafitel có thể dễ dàng tiến vào vùng biển Caribe, chỉ đủ nông để “cắt đuôi” các tàu chiến Tây Ban Nha bám theo. Lafitte và các thuộc hạ của hắn (thường được gọi là Cướp biển Barataria) thường xuyên phải đối mặt với những lời đe dọa từ các quan chức hải quan Mỹ và Hải quân Tây Ban Nha. Theo báo cáo, đội của Lafitte đã tấn công và cướp phá hơn 100 con tàu đi qua Biển Caribe và Vịnh Mexico, cướp đi nhiều vật có giá trị, bao gồm cả nô lệ. Họ dần trở thành nguồn cung cấp hàng ngoại chính và nô lệ da đen trong khu vực. Từ năm 1808, Mỹ cấm nhập khẩu nô lệ, tại thị trường New Orleans, giá mỗi nô lệ giảm từ 20 USD xuống còn 1.000 USD, điều này đã mang lại lợi nhuận đáng kể cho Lafitte.
Những kẻ man rợ cướp biển thường tổ chức các cuộc đấu giá ở các đầm lầy ở miền nam Louisiana, cũng như tàng trữ đại bác và thuốc súng. Vào thời điểm đó, người ta tin rằng Lafitte có tới 1.000 thuộc hạ, bao gồm cả những người da đen được trả tự do hoặc nô lệ chạy trốn. Anh em nhà Lafitte đôi khi bị bắt và bỏ tù, nhưng thường là trốn thoát.
Năm 1814, trong Chiến tranh Anh-Mỹ (1812-1815), người Anh cố gắng thu hút Lafitte, và những tên cướp biển Balatari đã gia nhập trại của họ để chống lại Hoa Kỳ bằng cách giúp người Anh tấn công New Orleans. Người Anh muốn chiếm thành phố vì đây được coi là nơi có hệ thống phòng thủ của Mỹ yếu hơn và tình hình chính trị bất ổn.
Lafitte được phong hàm Thuyền trưởng trong Hải quân Anh và hứa sẽ tha thứ cho anh ta hoàn toàn. Hành động phạm tội của băng cướp biển là nếu họ từ bỏ nước Mỹ, họ sẽ được cấp đất và 30.000 bảng Anh (2 triệu đô la Mỹ theo tỷ giá hối đoái hiện tại). Anh ta cũng hứa sẽ trả tự do cho anh trai Pierre, người đang trong tù chờ hành quyết từ nhà chứa máy bay của Lafitte, nếu họ thành công trong việc chiếm được New Orleans.
Ngoài việc đưa ra những điều kiện hấp dẫn, anh ta còn đe dọa rằng nếu Lafitte bị từ chối, họ sẽ tiêu hủy kho hàng của mình. Do đó, hacker đã nói với người Anh rằng anh ta cần hai tuần để suy nghĩ về nó, và anh ta sẽ tích cực xem xét đề xuất này. Tuy nhiên, thay vì bắt tay với kẻ thù, Lafitte lại gửi một bức thư cho một người tên Jean Blanc trong cơ quan lập pháp Louisiana, tiết lộ kế hoạch tấn công New Orleans của Anh.
Bởi vì chính quyền địa phương không tin tưởng Lafitte và các băng đảng của hắn, các tin tặc tiếp tục gửi một lá thư đến Thống đốc bang Louisiana, William Claiborne, nói rằng anh ta chỉ là “một con cừu đi lạc, hy vọng Return to the Flock ”, bày tỏ hy vọng giúp L Mỹ trong cuộc chiến thay vì ở lại với Anh. Tuy nhiên, Lafitte vẫn không thuyết phục được chính quyền Louisiana. Vào ngày 16 tháng 9 năm 1814, Hải quân Hoa Kỳ bao vây Đảo Grand dưới sự chỉ huy của Trung tá Thống đốc Daniel PattersonTrái đất là nơi ẩn náu của bọn cướp biển, chúng san bằng các tòa nhà và bắt giữ 80 người, trong đó có anh trai Alexander Lafitte. Tuy nhiên, kẻ cầm đầu băng cướp vẫn tẩu thoát. Vào tháng 12 năm 1814, Hải quân Hoa Kỳ va chạm với lực lượng Anh trên Hồ Born và bị mất vị trí, khiến họ mất 5 tàu chiến chở vũ khí và một số tàu chở tù nhân. Trong trận chiến này, 10 lính Mỹ bị chết và 35 người bị thương.
Cuối cùng, tướng Mỹ Andrew Jackson, người đã mô tả Lafitte là “tên trộm kinh tởm” phải đồng ý triệu tập anh ta và các quan chức của anh ta. Các nước phản đối Anh. Bất chấp định kiến của những tên cướp biển, Tướng Jackson vẫn khẩn cấp cần sự hỗ trợ của quân đội và sự hiểu biết về tiềm năng vũ khí của Lafitte, cũng như sự thông thạo địa hình và thiện xạ của những tên cướp biển. Sau cuộc họp, người hầu của Lafitte được thả và làm nhiệm vụ pháo binh, dọn đường cho quân Mỹ. Bản thân Lafitte được bổ nhiệm làm trợ lý không chính thức của Jackson.
Cướp biển Balataria nhanh chóng chứng tỏ giá trị của mình trong việc bảo vệ Hoa Kỳ chống lại Anh, điều này thể hiện rõ nhất trong trận New Orleans ngày 8 tháng 1 năm 1815. Hầu hết tất cả các quân. Ba tướng và bảy đại tá của Anh đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công của Mỹ ở Barataria.
Hình minh họa Trận chiến New Orleans giữa Hoa Kỳ và Anh năm 1815. Hình: Wikimedia Commons .- — Xin cảm ơn vì có công trong cuộc chiến, bọn cướp Lafitte đã được tổng thống James Madison ân xá. Tuy nhiên, sau một thời gian, họ quay lại con đường buôn lậu và chuyển đến đảo Galveston ở Mexico vào năm 1816. Trong vòng chưa đầy hai năm, Lafitte đã gây dựng lại hoạt động của băng cướp, thu giữ hàng hóa và đàm phán. Nhập lậu sang Hoa Kỳ.
Bất chấp sự đe dọa của quân đội Hoa Kỳ và sự tàn phá khu vực bởi những cơn bão quy mô lớn, “căn cứ” mới của Lafitte vẫn tồn tại cho đến năm 1821. Tuy nhiên, số phận của Lafitte đã theo sau. Khi nơi này bị bỏ hoang, chỉ có suy đoán. Một số người nói rằng tên cướp khét tiếng đã bị giết trên biển, trong khi những người khác nói rằng hắn chết vì bệnh tật. Những người khác nói rằng anh ta đã bị bắt bởi người Tây Ban Nha hoặc bị đồng bọn sát hại.
Một bài báo vào những năm 1940 nói rằng Lafitte đã chuyển đến Louis Louis, Missouri, để xây dựng lại cuộc đời của mình dưới một cái tên mới, John Laughlin. . Ông đã kết hôn ở đó và có một con trai với một người phụ nữ tên là Emma Mortimere. Theo bài báo này, Lafitte qua đời ở Alton, Illinois vào năm 1854 ở tuổi 70. . Từ Hoa Kỳ đến New Orleans. Nhiều đường phố và cộng đồng ở Louisiana được đặt theo tên ông, bao gồm Công viên Lịch sử Quốc gia Jean Lafitte và Khu Bảo tồn Thiên nhiên. cánh đồng)