Đại dịch đã khiến Trung Quốc được mệnh danh là “lồng ấp cúm”

Đại dịch đã khiến Trung Quốc được mệnh danh là “lồng ấp cúm”

2020-08-13 / Comments0 / 2 / Tư liệu
Facebook It
Tweet It
Pinterest It
Google Plus It

Nhiều dịch cúm tồi tệ nhất trong lịch sử bắt nguồn từ Trung Quốc, chẳng hạn như dịch cúm châu Á năm 1957 hay dịch cúm Hồng Kông năm 1968. Ngành chăn nuôi ở các nước phát triển thường không để lại hậu quả như vậy do sản xuất hàng hoá. Nhiều sản phẩm trong một khu vực nhất định tập trung vào một loại thịt duy nhất.

Ngoài ra, thịt giết mổ thường được đông lạnh, và cần có một loạt các biện pháp vệ sinh trung gian trước khi đến tay khách hàng. . Điều này giúp hạn chế khả năng lây nhiễm chéo giữa các loài, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát chất lượng sản phẩm và hệ thống.

Trong đợt bùng phát dịch SARS gần 20 năm trước và gần đây do vi rút coronavirus mới (nCoV), sự nghi ngờ của mọi người tiếp tục lan rộng trong thị trường tươi sống đô thị của Trung Quốc và mọi người ngày càng có xu hướng cố gắng sử dụng động vật hoang dã để chế biến sản phẩm. Chén đĩa. .

Vào tháng 4 năm 2003, một y tá bên ngoài phòng khám SARS bên ngoài Toronto, Canada. Ảnh: Reuters.

Đợt bùng phát viêm phổi cấp tính ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc dường như đang lặp lại “cơn ác mộng” của SARS, còn được gọi là hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng, xuất hiện lần đầu ở tỉnh Quảng Đông vào tháng 11 năm 2002. Căn bệnh này cũng do virus Coronavirus Coronavirus gây ra, được cho là bắt nguồn từ loài dơi và sau đó lây sang người thông qua xạ hương bán ở chợ động vật hoang dã. -SARS dễ lây lan. Bị sốt, ớn lạnh, đau cơ thể và các triệu chứng khác, và thường phát triển thành viêm phổi, với tỷ lệ tử vong là 10%. Kể từ đầu năm 2003, nó đã gây hoảng loạn ở châu Á, chủ yếu ở Singapore và Trung Quốc, đặc biệt là Hồng Kông. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra cảnh báo sức khỏe toàn cầu vào ngày 12/3/2003.

Dịch SARS đã xảy ra ở 37 quốc gia, với khoảng 8.000 trường hợp mắc và 774 trường hợp tử vong. Riêng tại Hong Kong, 80% nạn nhân ở Trung Quốc đại lục chiếm 300 trường hợp tử vong. Dịch bệnh đã được kiểm soát vào năm 2003, và không có trường hợp nào được báo cáo kể từ năm 2004.

Kể từ sau đại dịch SARS, chính phủ Trung Quốc đã xây dựng lại hệ thống kiểm soát bệnh truyền nhiễm và củng cố mạng lưới. Grid chia sẻ thông tin trong và ngoài nước và đã thiết lập một hệ thống thông báo thời gian thực trên toàn quốc về các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng và các bệnh truyền nhiễm. Điều trớ trêu là chính hệ thống kiểm soát chặt chẽ này lại dẫn đến sự chậm trễ trong việc xác nhận một trường hợp nhiễm nCoV mới.

Trước khi SARS xảy ra, Trung Quốc đã có vấn đề cúm gia cầm H5N1 vào năm 1997. Hiện tại, 18 người đã bị nhiễm vi rút này, và 6 người trong số họ đã bị nhiễm vi rút. Người Anh đã chết ở Hồng Kông ngay sau khi chạy trốn khỏi tàu SAR về đất liền. Vì 80% gia cầm ở Hồng Kông là gia cầm nhập khẩu, nó được nghi ngờ là một loại bệnh ở Trung Quốc Đại lục. Nhà chức trách Hong Kong đã ra lệnh tiêu hủy 1,5 triệu con gia cầm, bao gồm cả gà, vịt và vịt. Chim bồ câu được thiết kế để ngăn chặn sự lây lan của vi rút. Dòng vi-rút này đặc biệt nguy hiểm đối với gia cầm, và hầu hết các trường hợp con người tiếp xúc trực tiếp với động vật bị nhiễm bệnh. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, các triệu chứng bao gồm các bệnh giống như viêm phổi và suy đa tạng, với tỷ lệ tử vong gần 60%.

Do nhiễm virus, cúm gia cầm không được coi là bệnh ở người. Mặc dù lo lắng rằng nó sẽ phát triển thành một dạng lây lan, nhưng chức năng của nó rất hạn chế. Mặc dù vậy, theo Tổ chức Y tế Thế giới, khi virus tái xuất hiện ở Đông Nam Á vào năm 2003, nó vẫn là mối đe dọa nguy hiểm, lây lan sang 15 quốc gia và giết chết 282 người trong tổng số 468 trường hợp mắc bệnh. — Cũng từ một chủng vi rút cúm H5N1 có tên là H3N2, bệnh cúm Hồng Kông bắt đầu lây lan trong thành phố vào tháng 7 năm 1968, khiến 500.000 người mắc bệnh, tức là 15% dân số. Các con số ở đây. Sau đó dịch bao phủ toàn châu Á và lan sang Hoa Kỳ, châu Âu, Úc và châu Phi trong vòng vài tuần.

Đây được coi là dịch bệnh hiện đại đầu tiên Một trong những động lực thúc đẩy nó là sự phát triển nhanh chóng của bệnh cúm ở Hồng Kông. Ngành hàng không quốc tế. WHO phải huy động và phối hợp các nỗ lực toàn cầu để ứng phó với đại dịch này. Vào tháng 7 năm 1968, một bệnh nhân được đưa vào phòng chờ của một phòng khám ở Hồng Kông. Ảnh: South China Morning Post — Hong Kong Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), một đại dịch đã cướp đi sinh mạng của một triệu người. Mặc dù tỷ lệ tử vong thấp hơn so với dịch cúm Tây Ban Nha (1919-1920), dịch đã lây nhiễm cho 500 triệu người trên thế giới và gây ra từ 5 đến 100 triệu người chết, nhưng dịch cúm Hồng Kông đang lây lan nhanh chóng. Các triệu chứng kéo dài 4 đến 5Vào tháng 11 năm 1968, trong vòng vài ngày, đôi khi lâu nhất là hai tuần. Các nhà khoa học đã phát triển thành công vắc xin có khả năng phòng bệnh hiệu quả. WHO ước tính trong một báo cáo năm 1969 rằng sự hợp tác của Hồng Kông đã giúp quá trình nghiên cứu diễn ra “nhanh nhất có thể”. Vào tháng 1 năm 1970, tờ “Thời báo New York” đưa tin rằng “các nhà khoa học gần đây đã có ít nhất ba vụ dịch bị nghi ngờ đến từ Trung Quốc đại lục.” Bài báo này dẫn lời bác sĩ Zhang Weiqun từ Bệnh viện Queen Mary ở Hồng Kông tại một hội nghị quốc tế. Theo cuộc họp, dịch cúm ở Hồng Kông và Châu Á năm 1957 “dường như bắt nguồn từ Trung Quốc đại lục.” Vào tháng 2 năm 1957, ca bệnh cúm châu Á đầu tiên được phát hiện ở tỉnh Quý Châu, tây nam Trung Quốc, bệnh này cũng do một loại vi rút nhóm A có tên là H2N2 gây ra. Virus đã lây lan khắp đất nước và khắp thế giới, trở thành đại dịch nghiêm trọng nhất kể từ sau dịch cúm Tây Ban Nha.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng H2N2 là một chủng hỗn hợp, có nguồn gốc từ các chủng cúm gia cầm và vi rút cúm người. Giống như bệnh cúm Hồng Kông, một số người bị nhiễm cúm châu Á sẽ chỉ gặp các triệu chứng như ho và sốt nhẹ, nhưng trong số nhiều biến chứng nghiêm trọng khác, họ có thể chuyển thành viêm phổi và tử vong. Đã xảy ra trong đại dịch này. Trong vài tháng đầu, virus lây lan ở Trung Quốc và khắp nơi trên thế giới. Vào giữa mùa hè năm 1957, dịch bệnh đã lan sang Hoa Kỳ, nhưng thoạt đầu có vẻ như rất ít người bị nhiễm bệnh. Vài tháng sau, số ca mắc bệnh tăng đột biến, đặc biệt ở trẻ em, người già và phụ nữ mang thai, dẫn đến đợt bùng phát dịch bệnh thứ hai ở Bắc bán cầu vào tháng 11/1957. CDC ước tính 1,1 triệu người trên thế giới đã chết vì đại dịch cúm châu Á.

Cũng theo một bài báo trên New York Times vào tháng 1 năm 1970, Tây Ban Nha không phải là nơi sinh ra bệnh cúm Tây Ban Nha. Có thể nói, chuyện nguy hiểm nhất năm 1918 là Trung Quốc. Một bài báo năm 2018 trên Tạp chí Y khoa Anh đã đồng ý với quan điểm này. Virus gây ra đại dịch được cho là có nguồn gốc từ chim, lợn hoặc cả hai. Claude Hannoun, một chuyên gia hàng đầu về cúm tại Viện Pasteur năm 1918, nói rằng virus này có thể bắt nguồn từ Trung Quốc. Sau đó, nó trở thành Hoa Kỳ, và từ đó lan sang Pháp và toàn bộ châu Âu, lây nhiễm cho 500 triệu người và giết chết 5-100 triệu người, chiếm 3% đến 5% dân số thế giới lúc bấy giờ. Tử vong .—— Anh Ngọc (SCMP, “Wall Street Journal”, AFP)

Leave your comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Compare List
Get A Quote