Sữa chua Parmalat giá bao nhiêu? (3)
Xe tải vận chuyển sản phẩm Parmalat.
Năm 1961, sau khi thành lập Công ty sữa Parmalat, Tanzi đã áp dụng công nghệ thanh trùng. Sữa có thể được giữ tươi trong vài tháng mà không cần làm lạnh. Hộp sữa Parmalat bắt mắt dưới dạng Parmalat nhanh chóng xuất hiện tại các cửa hàng trên khắp nước Ý, chinh phục Pháp và hầu hết các nước trên thế giới.
Tanzi phát hiện ra sức mạnh của tiếp thị thông qua các hoạt động. phong trào. Tên Parmalat (Parmalat) từ Giải vô địch trượt tuyết thế giới đến đua xe Công thức một. Người chăn cừu sùng đạo Tanzi là một nhà từ thiện đã quyên góp rất nhiều tiền để khôi phục nhà thờ thế kỷ 11 ở Parma và tài trợ cho đội bóng đá chuyên nghiệp thành phố. Anh ta có vẻ rất khiêm tốn về thành công của mình. Tanzania không hút thuốc, uống ít hơn và tự lái Lexus. Theo lời khai của các nhà lãnh đạo của công ty, vào cuối những năm 1980, do sự đột phá của truyền hình, tình hình tài chính của công ty rất tồi tệ, nhưng đã thất bại. Năm 1987, Parmalat đã chi 130 triệu euro cho Odeon TV, với hy vọng biến nó thành mạng truyền hình lớn thứ ba ở Ý, nhưng nó đã đóng cửa ba năm sau đó. Để tránh phá sản, Tanzi đã thiết kế một kế hoạch được gọi là sáp nhập, theo đó Parmalat và một công ty chứng khoán không hoạt động được niêm yết trên thị trường chứng khoán Milan. Công ty mới sau đó đã huy động được khoảng 150 triệu euro từ các nhà đầu tư bên ngoài. Kết quả là, Parmalat trở thành một công ty TNHH đại chúng vào năm 1990 và đóng lỗ hổng nợ trong tài khoản của mình. Vào thời điểm đó, giá trị thị trường của công ty là khoảng 300 triệu euro. Tuy nhiên, vào năm 1993, Palmarat bắt đầu “phát minh” các giao dịch tài chính để cân bằng thanh toán. Các nhà điều tra từ Milan và Palma đã đồng ý rằng nếu họ không “nấu” tài khoản, các công ty sữa phải báo cáo các khoản lỗ từ năm 1990 đến 2003. Ngược lại, họ công bố lợi nhuận và rất khó để giải quyết vấn đề này bằng cách che giấu các giao dịch lớn và thu nhập sai. Từ năm 1992, tập đoàn đã mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm tại Ý, Brazil, Argentina, Hungary và Hoa Kỳ. Thẩm phán điều tra Parma Vito Zincani nói: “Điều này là trái với logic.” “Thông thường các công ty vay tiền để phát triển. Nhưng theo Parmalat, họ phải phát triển để che giấu nợ.” – Cốt lõi của gian lận là hệ thống hóa đơn kép của các siêu thị và khách hàng Ý. Hàng hóa bán lẻ khác. Nói một cách đơn giản, bằng cách phát hành hai hóa đơn cho hợp đồng hàng hóa, Parmalat có thể tạo ấn tượng rằng số tiền mà tài khoản của anh ta nhận được lớn hơn nhiều so với số tiền thực tế. Claudio Pessina, một trong những người vận hành hệ thống, nói với thẩm phán ở Milan rằng có tới 300 người trong nhà máy sữa biết điều này. Nhưng ngay cả khi họ biết điều đó là sai, họ cũng không nói.
Khi Parmalat mở rộng trên toàn cầu vào năm 1990, các cố vấn tài chính và mạng lưới ngân hàng cũng vậy. Ferrari là một trong số đó. Trước khi gia nhập Pamalat với tư cách là một giám đốc điều hành ở Canada và Úc, ông đã làm việc 7 năm tại Citigroup ở Milan và thường xuyên liên lạc với Tonna. Ferrari nhớ lại: “Cạnh tranh của Pamarat rất khốc liệt.” Vào thời điểm đó, các ngân hàng đầu tư ở Hoa Kỳ, Anh và Châu Âu đã xâm chiếm Ý để thuyết phục các công ty địa phương sử dụng dịch vụ của họ và Donna rất khó chọn. “Bạn phải chọn những sản phẩm thực sự khiến họ quan tâm”, Ferrari nhớ lại. Đối với Citigroup, Ferrari có hai công việc táo bạo: giải thích kế hoạch tư nhân hóa, theo đó thu nhập mà công ty kiếm được được đưa vào các công cụ nợ và bán cho các nhà đầu tư, và đề nghị Palmarat mua công ty . Citigroup đã tiến hành 310 triệu đô la trong các hoạt động thương mại tại Beatrice Food ở Canada. Ferrari cũng thiết lập một cơ chế tài chính phức tạp thông qua Buconero, Delkn của Citigroup, mà Citigroup đã tạo ra cho Parmalat vào năm 1999. Buconero đã vay tổng cộng US $ 137 cho một chi nhánh ở Parmalat, Thụy Sĩ. triệu. Sau đó, chi nhánh chuyển tiền cho các chi nhánh khác. Buconero nhận được lợi nhuận đảm bảo 6%, cộng với chi phí 7 triệu đô la cho Citigroup. Trong một vụ kiện chống lại Citigroup đòi bồi thường 10 tỷ USD, giám đốc phá sản của Bondi, cáo buộc Buconero đã sử dụng để chuyển đổi nợ thành chứng khoán, và ngân hàng nên biết về tình hình tài chính thực sự của Palmarat. Citigroup bác bỏ cáo buộc này, nói rằng Parmalat đã sử dụng một hình thức hoàn toàn hợp pháp của cơ chế tài chính chi phí bí mật được nhiều công ty Ý áp dụng. Rõ ràng, vào thời điểm sụp đổ, Parmalat đã tạo ra hàng chục công ty nước ngoài – các ngân hàng đã thu thập chúngHoa hồng khổng lồ có thể giúp công ty làm điều này. Theo tính toán của Bondi, 6,5 tỷ euro (gần một nửa tổng số nợ sữa) sẽ được sử dụng để trả lãi suất và hoa hồng. Trong số tiền này, 2,8 tỷ euro đã được gửi đến ngân hàng.
Năm 1995, Donna và các quan chức khác thừa nhận với thẩm phán rằng chỉ riêng ở Mỹ Latinh, Palmarat đã mất 300 triệu đô la mỗi năm. Công ty quyết định không tiết lộ một phần nợ trong báo cáo tài chính. Họ làm điều này thông qua ba công ty Caribbean. Các công ty này tuyên bố bán sản phẩm Palmarat và Palmarat sẽ gửi cho họ hóa đơn giả để “bán hàng” hợp pháp. Sau đó, tập đoàn sữa đã mở một ghi chú tín dụng về số tiền đến hạn từ công ty con và mang nó đến ngân hàng để vay tiền. Để làm cho khoản nợ biến mất, Parmalat đã chuyển khoản nợ cho một cơ quan không có giấy tờ và cũng đủ điều kiện nhận ưu đãi thuế. Bondi coi hệ thống này là một phương tiện chết người. “Để tránh không thể trả được nợ, Parmalat đã đặt mình vào một cơ chế tài chính khổng lồ, thậm chí còn đắt hơn.”
Nguyễn Hạnh (tùy theo thời tiết)
Tiếp theo
Phần 1 2