Lịch sử chiến tranh Triều Tiên
Quân đội của MacArthur đánh bại các đợt sóng mà không gặp phải một cuộc phản công nào.
Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 8 Hoa Kỳ đã kiểm soát Busan. Những người lính Bắc Triều Tiên bắt đầu rút lui. Vào ngày 25 tháng 9, lực lượng Đồng minh tái chiếm Seoul.
Quân đội Liên Hợp Quốc đổ bộ vào Incheon – một chiến dịch đã đánh lui các binh đoàn pháo binh của Seoul-Hàn Quốc. Ảnh: korea-np.co.jp .—— Đồng minh lẽ ra phải dừng lại ở vĩ tuyến 38, nhưng Tổng thống Mỹ Harry Truman lại muốn thống nhất bán đảo để thành lập một chính phủ có lợi cho phương Tây. Tướng MacArthur ngay lập tức ra lệnh cho binh lính của mình xua quân Bắc Triều Tiên qua biên giới. Tuy nhiên, vì lo sợ chiến tranh, Truman yêu cầu MacArthur không xâm lược Trung Quốc. Bắc Kinh cũng cảnh báo rằng nếu đồng minh tiến vào Triều Tiên, nước này sẽ nổ ra chiến tranh.
Vào ngày 15 tháng 10, Tướng MacArthur và Tổng thống Truman đã thảo luận về tương lai của cuộc chiến trên Đảo Wake ở Thái Bình Dương. MacArthur tin rằng lực lượng Đồng minh sẽ thành công trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Triều Tiên, và ông không sợ sự can thiệp của Trung Quốc.
Chỉ mười ngày sau, quân đội Trung Quốc phát động làn sóng tấn công đầu tiên vào lực lượng Đồng minh. Tướng MacArthur ra lệnh hành động quyết định vào ngày 24 tháng 11 để đưa quân đến sông Áp Lục, nơi đánh dấu biên giới giữa Bắc Triều Tiên và Đông Bắc Trung Quốc. Ông hy vọng rằng chiến dịch sẽ giúp kết thúc chiến tranh và giúp các binh sĩ có thể “về nhà trước Giáng sinh.” Tuy nhiên, tình hình nhanh chóng được cải thiện vào ngày hôm sau, và khoảng 180.000 người Trung Quốc “muốn” chống trả. MacArthur ngạc nhiên nói: “Chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc chiến hoàn toàn mới.” Thay vào đó, ông ra lệnh cho quân di tản trong điều kiện thời tiết dưới 0, để cuối năm đó quân đội quay trở lại vĩ tuyến 38.
Những người lính của Tiểu đoàn 3, Quân đoàn Hoàng gia Úc, trong Chiến tranh Triều Tiên. Ảnh: korean-war.commemoration.gov.au
Khi binh lính Trung Quốc phát động một phong trào mới, lực lượng Đồng minh buộc phải sơ tán về phía nam Seoul vào tháng 1 năm 1951. Tại đây, do nằm trong nội bộ nên khả năng phòng thủ của các binh sĩ LHQ càng tốt hơn. Sau nhiều tháng chiến đấu, hoạt động của vĩ tuyến 38 đã ổn định.
Tại thời điểm này, Tổng thống Truman tuyên bố rằng Liên Hợp Quốc đã sẵn sàng ký hiệp ước đình chiến. Tuy nhiên, Tướng MacArthur không muốn nhượng bộ. Ông đã công khai bày tỏ quan điểm của mình về việc kéo dài cuộc chiến với Trung Quốc và tránh né tổng thống, đồng thời đệ trình quan điểm của mình lên Nghị viện.
Truman giải tán Tướng MacArthur vào tháng 4 năm 1951 vì sự bất tuân của ông. MacArthur được thay thế bởi Tướng Matthew Ridway. Sau khi qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi, ông giữ chức Tư lệnh Tập đoàn quân số 8 của Triều Tiên, Tướng Walton Walker. Năm 1951, quân đội Trung Quốc sẽ đầu hàng tại tỉnh Gangwon, quốc gia Hàn Quốc.
Các cuộc đàm phán ngừng bắn bắt đầu vào ngày 10 tháng 7 năm 1951. Tuy nhiên, quá trình này đã bị đình trệ do các vấn đề như trao đổi tù nhân chiến tranh hoặc vị trí của biên giới tạm thời. Cuối cùng hai bên đã ký hiệp định đình chiến, nhưng chỉ vì ảnh hưởng từ bên ngoài.
Vào tháng 1 năm 1953, Dwight Eisenhower, người đã tấn công cuộc chiến đã kế nhiệm Truman làm Tổng thống Hoa Kỳ. Eisenhower cho biết đã chuẩn bị sử dụng vũ khí hạt nhân để chấm dứt xung đột trên bán đảo. Tháng 3 năm 1953, nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin qua đời.
Ngày 27 tháng 7 năm 1953, hai bên ký hiệp định ngừng bắn và xác định đường ranh giới tạm thời, đặt hai nước là ranh giới mới. Vào thời điểm đó, hiệp định đình chiến chỉ có giá trị tạm thời cho đến khi “hòa bình lập lại”. Điều này không bao giờ xảy ra. Hội nghị Genève năm 1954 không giải quyết được vấn đề này. Kể từ đó, biên giới Bắc Triều Tiên là một điểm nóng.
Hai bên đã ký hiệp định đình chiến
Hailong